Phụ nữ bị động kinh cần phải thông báo cho bác sĩ biết về bệnh của mình,tốt nhất là trước khi mang thai, hoặc nếu đã có thai thì phải thông báo càng sớm càng tốt. Trong trường hợp 2 – 3 năm trước đó không còn cơn co giật..

Phụ nữ bị động kinh cần  phải thông báo cho bác sĩ  biết về bệnh của mình,tốt nhất là trước khi mang thai, hoặc nếu đã có thai thì phải thông báo càng sớm càng tốt. Trong trường hợp 2 – 3 năm trước đó không còn cơn co giật, thì việc không sử dụng thuốc chống động kinh có thể được cân nhắc cẩn thận. Quyết định này cần phải đưa vào nguy cơ của những cơn co giật tái phát.


Nếu một người vẫn còn bị lên cơn động kinh, bác sĩ chuyên khoa cần phải chắc chắn rằng bệnh nhân đang được điều trị với liều thấp nhất mà hiệu quả nhất, vẫn kiểm soát cơn co giật tốt nhất. Bất kỳ sự thay đổi thuốc nào cũng phải có sự giám sát của bác sĩ.
Trong quá trình mang thai, cơ thể hấp thu nhiều thuốc chống động kinh hơn, và nồng độ thuốc trong máu có thể giảm, vì vậy nồng độ thuốc trong máu nên được theo dõi thường xuyên và có thể tăng liều dùng.

MỨC ĐỘ NGUY HIỂM CỦA VIỆC DÙNG THUỐC CHỐNG ĐỘNG KINH TRONG THAI KỲ:

Mọi người đều biết điều quan trọng trong quá trình mang thai là tránh dùng thuốc bao gồm cả rượu và thuốc lá. Tuy nhiên, người phụ nữ đang bị động kinh vẫn cần phải tiếp tục sử dụng thuốc chống động kinh trong khi mang thai. Nguy hiểm của việc không dùng thuốc và nguy cơ lên cơn co giật nhìn chung lớn hơn so với tác hại do dùng thuốc chống động kinh.
3% nguy cơ những đứa trẻ sinh ra sẽ có dị tật khác thường. Nếu dùng một loại thuốc chống động kinh, nguy cơ mắc dị tật sẽ là 7% và nếu dùng từ hai loại thuốc chống động kinh trở lên thì nguy cơ dị tật sẽ tăng tới 15%. Cũng rất đúng khi nói rằng nguy hiểm đối với thai nhi càng tăng khi liều lượng dùng thuốc càng cao.

MỘT SỐ NGUY CƠ CHO TRẺ: 

Ở người mẹ đang điều trị thuốc chống động kinh, dị tật ở đứa con được sinh ra có thể gặp là sứt môi hoặc hở hàm ếch. Dị dạng ở các chi cũng có thể xảy ra; tim, mặt, mắt và tai đều có thể bị ảnh hưởng.
Tác hại của thuốc chống động kinh cũng bao gồm dị tật ống thần kinh (ví dụ như đốt sống chẻ đôi). Nguy cơ này chiếm 0.2-0.5% trong tổng số ca bệnh. Riêng với Natri valproate có tới 1-2% nguy cơ bị dị tật ống thần kinh, và 1% với Carbamazepine (Tegretol). Nguy cơ này càng thấp nếu liều sử dụng càng ít. Người ta cũng khuyến cáo rằng việc bổ sung 5mg axit folic mỗi ngày trước và trong quá trình mang thai sẽ giảm rõ rệt nguy cơ bị dị tật. Và ở đứa trẻ này cũng có nguy cơ phát triển tâm thần chậm hơn những đứa trẻ bình thường.
Để tránh nguy cơ chảy máu ở trẻ, người mẹ được khuyên nên dùng vitamin K1 hàng ngày ( uống 20mg) vào tháng cuối thai kỳ. Vitamin này  cũng được cho trẻ lúc mới sinh.
Theo một khảo sát theo dõi thai kỳ của những phụ nữ bị động kinh ở Anh: Natri valproate có thể gây nguy hiểm  đối với bào thai nhiều hơn so với những loại thuốc chống động kinh quan trọng thuộc thế hệ cũ hơn (cabamaxepine, phenytoin, phenobarbital). Acetazolamide được cho là gây ra những hậu quả nghiêm trọng nhưng lại thiếu chứng cứ thuyết phục. Vẫn chưa tìm hiểu kỹ những thuốc thế hệ mới ( như vigabatrin, lamotrigine, gabapentine, topiramate, tiagabine, oxcarbazepine, levitiracetam) có ảnh hưởng nguy hiểm hơn những loại thuốc thế hệ cũ hơn hay không?

NGUY CƠ TĂNG CƠN CO GIẬT KHI MANG THAI:

Hầu hết phụ nữ bị động kinh không tăng số cơn co giật trong khi mang thai, tuy nhiên  khoảng 17 – 37% người có số lần co giật tăng liên quan tới việc sử dụng thuốc chống động kinh không phù hợp (hoặc không hiệu quả bởi vì nôn ói), mất ngủ hoặc bởi việc mang thai đều làm giảm nồng độ thuốc trong máu.
50% phụ nữ mang thai bị động kinh có thể kiểm soát cơn động kinh tốt, thường là do họ luôn quan tâm đến việc ngủ đủ giấc và sử dụng thuốc đều đặn.

KHẢ NĂNG BỊ CO GIẬT TRONG KHI LÀM VIỆC:

Chỉ 1-2% phụ nữ đang bị động kinh sẽ có cơn co cứng- co giật khi làm việc, và hơn 1-2% sẽ có một cơn trong 24 giờ tiếp theo. Vì vậy nên dùng thuốc chống động kinh như thường lệ trong khi làm việc. Lúc sanh nên chú ý tới tất cả những yếu tố liên quan đến bệnh động kinh của người mẹ: loại thuốc đang dùng và  thể loại cơn co giật.
Điều quan trọng cần phải nhớ là rất nhiều phụ nữ bị động kinh nhưng thai kỳ vẫn an toàn, sinh con bình thường và trẻ sinh ra vẫn khỏe mạnh.

MẸ ĐỘNG KINH CHĂM SÓC CON SAU SINH:

Nếu cơn co giật được kiểm soát chặt chẽ thì việc chăm sóc con nhỏ sẽ không bị ảnh hưởng nhiều. Ngược lại nếu không kiểm soát đựơc cơn co giật, thì có thể rất nguy hiểm và những nguy hiểm này phụ thuộc vào tính chất cơn co giật của bệnh nhân.
Nếu xảy ra đột ngột, không đoán trước được, thì việc thay quần áo, cho ăn, và tắm cho trẻ nên được thực hiện trên sàn nhà. Nếu người bị bệnh động kinh tắm cho bé, thì không nên tắm trong nước quá sâu; đặt trẻ trên một tấm chiếu trên sàn nhà sẽ an toàn hơn. Ẳm trẻ đi lên xuống cầu thang đều rất nguy hiểm. Xe đẩy của trẻ cũng nên được khóa an toàn, không để chạy tự do.

SỮA NGƯỜI MẸ BỊ ĐỘNG KINH CÓ AN TOÀN KHÔNG?

Nhìn chung, người ta khuyến khích cho trẻ bú sữa mẹ, và người mẹ bị động kinh cũng không ngoại lệ. Nguời mẹ đang dùng thuốc chống động kinh nên cho con bú bình thường vì đứa trẻ đã tiếp xúc với thuốc khi nó còn trong tử cung và chỉ có một phần nhỏ thành phần thuốc chuyển từ máu vào trong sữa của người mẹ. Các thông tin từ công ty dược đều chỉ ra rằng cần phải cân nhắc những nguy cơ  và lợi ích của việc bú sữa mẹ một cách cẩn thận.
Khi cho trẻ bú, người mẹ nên ngồi trên tấm thảm trên sàn, dựa vào tường để giảm nguy cơ làm rơi trẻ trong cơn co giật. Bú bình với sự phụ giúp của người chồng, có thể rất hữu ích trong trường hợp cơn co giật của người mẹ tăng lên do sự mệt mỏi hoặc mất ngủ.
Một vài loại thuốc như Phenobarbital có thể làm cho trẻ ngủ mê man. Trong trường hợp này, việc thay đổi lần lượt giữa bú bình và bú sữa mẹ là rất cần thiết.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.