Kết quả một khảo sát tại Hoa Kỳ trên hơn 46,000 người có 8% bị trầm cảm nhưng chỉ có 1 /3 trong số họ được điều trị.
Kết quả một khảo sát tại Hoa Kỳ trên hơn 46,000 người có 8% bị trầm cảm nhưng chỉ có 1 /3 trong số họ được điều trị.
Một số người lớn có triệu chứng trầm cảm không tin rằng đấy là dấu hiệu và bằng chứng đòi hỏi phải thăm khám hoặc không tin là có thể nhận được lợi ích điều trị.
Đối với một số người khác thì lý do là sự kỳ thị hoặc sự can thiệp “ngượng ngùng” nhằm đạt được sự giúp đỡ về nghiệp vụ tâm thần.
Còn một số trường hợp khác, thăm khám y khoa có khuynh hướng ép buộc cấp thiết với các triệu chứng bệnh lý y khoa và cơ hội lâm sàng phát hiện trầm cảm thường bị bỏ quên.
Khảo sát cũng phát hiện một số bệnh nhân điều trị quá mức với nhiều thuốc chống trầm cảm, nhưng số liệu này không thể xác định được.
Một số bệnh nhân bị trầm cảm thể nhẹ hoặc ít rõ ràng cũng đòi hỏi điều trị với thuốc chống trầm cảm mặc dù có chứng cứ các thuốc này ít tác dụng trong các thể trầm cảm nhẹ.
Trong khi một số người Mỹ nhìn nhận các thuốc chống trầm cảm như một sự điểm xấu (nếu phải sử dụng), một số người khác lại xem thuốc chống trầm cảm là một sự lựa chọn làm tăng giá trị con người và cuộc sống hạnh phúc, giống như cung cấp lợi ích sau khi được công nhận trong điều trị.
Tương tự, đôi khi các bác sĩ tiếp tục cho bệnh nhân dùng thuốc chống trầm cảm kể cả khi không có bệnh sử trầm cảm nặng hàng nhiều năm sau khi tình trạng trầm cảm của bệnh nhân đã được giải quyết.
Bs Olfson và cộng sự phát hiện trong số bệnh nhân tham gia khảo cứu được điều trị trầm cảm có 30 % bệnh trầm cảm của họ dựa trên kết quả sàng lọc, 22 % dựa vào sự than phiền đau buồn về tâm lý.
Trị liệu trầm cảm phổ biến là dùng thuốc chống trầm cảm và tâm lý trị liệu. Bệnh nhân trầm cảm có khuynh hướng điều trị với các bác sĩ làm công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu, trong khi bệnh nhân đau buồn về tâm lý lại có khuynh hướng thăm khám và điều trị bởi các bác sĩ chuyên khoa tâm thần. Tuy nhiên, hơn một nửa bệnh nhân đau buồn trầm trọng về tâm lý không tới thăm khám bác sĩ chuyên khoa tâm thần, chuyên viên tâm lý hay nhân viên y tế chuyên khoa khác.
Bệnh nhân trong Chương trình Medicare và Medicaid thường được điều trị trầm cảm, trong khi bệnh nhân không có bảo hiểm hay người dân tộc thiểu số ít thăm khám điều trị.
Các tác giả cho rằng phát hiện những thiếu sót lớn trên trong cách chẩn đoán vừa điều trị trầm cảm. Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng các tác giả vẫn chưa biết khi nào có sự kết nối sự thiếu sót giữa điều trị trầm cảm dựa trên chứng cứ và những người cần điều trị nhất.
Thực tế tại Tp Hồ Chí Minh tỷ lệ thăm khám chuyên khoa tâm thần khi có các biểu hiện đau khổ về tâm lý hay triệu chứng trầm cảm khá cao. Đây là một tín hiệu đáng mừng. Tuy nhiên rất nhiều bệnh nhân chỉ thăm khám đúng chuyên khoa tâm thần sau khi khám điều trị ở các chuyên khoa liên quan và thường được dùng nhiều loại thuốc chuyên khoa tâm thần chưa hẳn cần thiết.
Mặt khác, một số bệnh nhân điều trị trầm cảm kéo dài một cách không cần thiết vì các tác dụng không mong muốn của thuốc chống trầm cảm gây ra, hoặc vì tương tác thuốc có hại xảy ra dẫn tới tình trạng phụ thuộc hoặc dẫn tới hội chứng rối loạn chuyển hóa. Những lý do trên có thể góp phần vào sự suy giảm khả năng tái thích ứng cuộc sống gia đình và xã hội.