Các báo cáo trước đây chứng minh sự suy giảm chất lượng cuộc sống trong các rối loạn trầm cảm và lo âu dựa trên các mẫu dịch tễ học hoặc các nghiên cứu lâm sàng khá nhỏ. Sự áp dụng cùng một thang chất lượng cuộc sống

Các báo cáo trước đây chứng minh sự suy giảm chất lượng cuộc sống trong các rối loạn trầm cảm và lo âu dựa trên các mẫu dịch tễ học hoặc các nghiên cứu lâm sàng khá nhỏ. Sự áp dụng cùng một thang chất lượng cuộc sống, Bản Câu Hỏi Sự Hưởng Thụ Và Sự Thoả Mãn Chất Lượng Cuộc Sống, cho các đối tượng tham gia vào nhiều thử nghiệm quy mô rộng  đối với các rối loạn trầm cảm và lo âu cho phép chúng tôi so sánh tác động của các rối loạn này trên chất lượng cuộc sống.

Phương pháp:
Bản Câu Hỏi Sự Hưởng Thụ Và Sự Thoả Mãn Chất Lượng Cuộc Sống làm chuẩn, các số liệu dân số và lâm sàng lấy từ 11 thử nghiệm điều trị bao gồm các nghiên cứu về rối loạn trầm cảm chủ yếu, trầm cảm mạn tính/kép, rối loạn loạn khí sắc, rối loạn hoảng loạn, rối loạn ám ảnh bó buộc, ám ảnh sợ xã hội, rối loạn loạn cảm tiền kinh nguyệt, rối loạn stress sau chấn thương đã được phân tích.

Kết quả: tỉ lệ người bệnh có suy giảm nặng về lâm sàng (thấp hơn hai độ lệch chuẩn so với chuẩn cộng đồng) trong chất lượng cuộc sống thay đổi theo các chẩn đoán khác nhau: rối loạn trầm cảm chủ yếu 63%, trầm cảm mạn tính/kép 85%, rối loạn loạn khí sắc 56%, rối loạn hoảng loạn 20%, loạn ám ảnh bó buộc 26%, ám ảnh sợ xã hội 21%, rối loạn loạn cảm tiền kinh nguyệt 31%, rối loạn stress sau chấn thương 59%. Phân tích hồi quy cho mỗi loại rối loạn gợi ý rằng các thang triệu chứng bệnh chuyên biệt có liên quan ý nghĩa với chất lượng cuộc sống làm chuẩn nhưng chỉ giải thích ở một tỉ lệ nhỏ đến trung bình về sự khác biệt trong điểm số Bản Câu Hỏi Sự Hưởng Thụ Và Sự Thoả Mãn Chất Lượng Cuộc Sống.

Kết luận: các đối tượng có rối loạn cảm xúc và lo âu tham gia vào các thử nghiệm lâm sàng có sự suy giảm chất lượng cuộc sống ý nghĩa, dù mức độ rối loạn chức năng có biến thiên. Các phép đo lường triệu chứng chẩn đoán chuyên biệt chỉ giải thích một tỉ lệ nhỏ sự khác biệt về chất lượng cuộc sống, gợi ý rằng sự cảm nhận của một cá nhân về chất lượng cuộc sống là một yếu tố phụ thêm vào một sự lượng giá hoàn chỉnh.

GIỚI THIỆU
Trong khi các triệu chứng và các dấu hiệu vẫn còn là các đặc điểm xác định của phân loại học tâm thần, ngày càng có sự nhất trí rằng lĩnh vực lượng giá nên bao gồm những chiều hướng rộng hơn như là hoạt động chức năng và chất lượng cuộc sống. Điều này dẫn đến một điều hiển nhiên là điều trị thành công phải đạt được nhiều hơn là thuyên giảm các triệu chứng và các dấu hiệu để phát biểu vấn đề rộng hơn về sự hồi phục sức khoẻ. Sau định nghĩa về sức khoẻ của Tổ Chức Y Tế Thế Giới 1948, sự lượng giá thận trọng về chất lượng cuộc sống đối với các người bệnh tâm thần và tác động của các can thiệp điều trị về chất lượng cuộc sống đã nổi lên như là những vấn đề quan trọng đối với lĩnh vực tâm thần.

Chất lượng cuộc sống  được định nghĩa theo nhiều cách và cũng có nhiều phép đo lường nó. Hầu hết các định nghĩa khẳng định rằng sự lượng giá chất lượng cuộc sống nên xem xét đến quan điểm chủ quan của người bệnh về hoàn cảnh sống của họ. Điều này bao gồm các cảm nhận về các quan hệ xã hội; sức khoẻ cơ thể; thực hiện hoạt động hằng ngày và công việc; tình trạng kinh tế và cảm giác tổng thể về sức khoẻ. Trong khi các phép đo lường chỉ tập trung vào các sự suy giảm khách quan và định lượng có sẵn, các phép đo lường về chất lượng cuộc sống lượng giá sự hưởng thụ và sự thoả mãn cuộc sống kèm với các hoạt động khác nhau.

Một số nghiên cứu so sánh rối loạn hoạt động chất lượng cuộc sống về rối loạn trầm cảm chủ yếu và các rối loạn lo âu có những phát hiện không chắc chắn. Vài nghiên cứu báo cáo rằng suy giảm chất lượng cuộc sống nhiều hơn đối với rối loạn trầm cảm chủ yếu, trái lại các nghiên cứu khác báo cáo rằng các thiếu sót có thể so sánh được về chất lượng cuộc sống đối với các rối loạn lo âu và rối loạn trầm cảm chủ yếu. Không có nghiên cứu nào lượng giá chất lượng cuộc sống trên một dải rộng các rối loạn khí sắc và lo âu với cùng một công cụ được chuẩn hoá.

Đối với cơn hoảng loạn, sự tương quan có ý nghĩa lâm sàng về chất lượng cuộc sống bao gồm bệnh tâm thần đi kèm theo, lo âu, đau ngực nặng, thiếu nâng đỡ xã hội, giáo dục và tàn tật. Đối với người bệnh rối loạn sau sang chấn, khi có bệnh nội khoa kèm theo sẽ tiên đoán có ý nghĩa một sự suy giảm chất lượng cuộc sống. Hiểu biết mối liên hệ giữa sự rối loạn chất lượng cuộc sống và các đặc điểm lâm sàng chuyên biệt của các rối loạn cảm xúc và lo âu có thể gợi ý những phướng hướng mới để cải thiện các can thiệp điều trị và có thể làm thuận tiện việc phân phối thích hợp các nguồn chăm sóc sức khoẻ khan hiếm.
Nghiên cứu này xem xét sự suy giảm chất lượng cuộc sống trên các đối tượng có một trong tám rối loạn cảm xúc hoặc lo âu với cùng một công cụ có liên quan đến các dữ liệu chuẩn cộng đồng. Mức độ suy giảm chất lượng cuộc sống trong các rối loạn này sẽ được xem xét cũng như sự góp phần tương đối của độ nặng triệu chứng bệnh chuyên biệt, sự có mặt của bệnh tâm thần kèm theo, thời gian mắc bệnh, đặc điểm dân số học đối với sự tiên đoán rối loạn chất lượng cuộc sống.

PHƯƠNG PHÁP 
Dữ liệu cho phân tích này được rút ra từ 11 thử nghiệm đa trung tâm nghiên cứu hiệu quả điều trị sertraline đối với các rối loạn lo âu và cảm xúc. Mẫu này gồm có các đối tượng rối loạn trầm cảm chủ yếu, trầm cảm kép/mạn tính, rối loạn hoảng loạn, rối loạn stress sau chấn thương, rối loạn loạn cảm tiền kinh nguyệt, rối loạn ám ảnh bó buộc, loạn khí sắc, và ám ảnh sợ xã hội. Ngoài ra, dữ liệu từ một mẫu cộng đồng không rối loạn tâm thần (n=67) được sử dụng để thiết lập các tiêu chuẩn cho Bản Câu Hỏi Sự Hưởng Thụ Và Sự Thoả Mãn Chất Lượng Cuộc Sống.

ĐÂY LÀ CÁC ĐỐI TƯỢNG TÌNH NGUYỆN.
Các đối tượng
Các đối tượng từ các mẫu thử nghiệm lâm sàng là nam và nữ từ 18 tuổi trở lên.
Các đối tượng có rối loạn lưỡng cực, tâm thần phân liệt hoặc loạn thần khác, lạm dụng hoặc lệ thuộc rượu hoặc chất, rối loạn nhân cách nặng, hoặc nguy cơ tự tử cao được loại ra khỏi nghiên cứu.
Số lượng các đối tượng cho mỗi loại rối loạn như sau:
–    Rối loạn trầm cảm chủ yếu, 366 trường hợp.
–    Trầm cảm mạn tính/kép, 576 trường hợp.
–    Rối loạn loạn khí sắc, 315 trường hợp.
–    Rối loạn loạn cảm tiền kinh nguyệt, 437 trường hợp.
–    Rối loạn stress sau chấn thương, 139 trường hợp.
–    Rối loạn hoảng loạn, 302 trường hợp.
–    Ám ảnh sợ xã hội, 358 trường hợp.
–    Rối loạn ám ảnh bó buộc, 521 trường hợp.
Mẫu tình nguyện so sánh cũng được sàng lọc để loại ra những người có rối loạn tâm thần hoặc bệnh nội khoa ý nghĩa lâm sàng.

Lượng giá chất lượng cuộc sống
Mẫu ngắn của Bản Câu Hỏi Sự Hưởng Thụ Và Sự Thoả Mãn Chất Lượng Cuộc Sống được điền đầy đủ bởi các đối tượng trước khi điều trị trong mỗi nghiên cứu. Đây là một mẫu tự điền bao gồm 16 đề mục, mỗi cái được đánh giá trên thang điểm 1-5 để chỉ mức độ sự hưởng thụ hoặc sự thoả mãn được trải nghiệm trong tuần cuối cùng. Điểm tổng cộng của các đề mục 1-14 được tính và trình bày theo tỉ lệ % trên tổng điểm tối đa là 70 điểm. 14 đề mục đánh giá sự thoả mãn của các đối tượng gồm sức khoẻ thể chất; các quan hệ xã hội; khả năng hoạt động trong cuộc sống hằng ngày; khả năng di chuyển cơ thể; khí sắc; các quan hệ gia đình; ham muốn và thích thú tình dục; khả năng tiếp tục các sở thích, công việc, hoạt động rỗi; tình trạng kinh tế; các hoạt động tại nhà; điều kiện sống/nhà ở; và cảm giác chung về sự thoải mái. Có 2 đề mục tổng quát là 15 và 16 không được cộng vào điểm tổng cộng là: sự thoả mãn và sự bằng lòng về cuộc sống và thuốc men trong tuần qua. Ở mẫu cộng đồng, độ tin cậy kiểm-tái kiểm (test-retest) ngắn hạn (1-2 tuần) trên tổng điểm 14 đề mục là 0,86.

Các yếu tố tiên đoán chất lượng cuộc sống
Thêm vào các biến số dân số học (tuổi, giới), thời gian bệnh, và bệnh kèm theo, mức độ nặng của các triệu chứng bệnh chuyên biệt được xem xét như là các yếu tố tiên đoán chất lượng cuộc sống cho mỗi loại rối loạn. Đối với các nghiên cứu rối loạn trầm cảm chủ yếu, trầm cảm kép/mạn tính, và loạn khí sắc, sử dụng thang trầm cảm Hamilton 17 đề mục để đo lường mức độ nặng. Đối với rối loạn ám ảnh bó buộc, sử dụng thang của Yale-Brown; đối với rối loạn stress sau chấn thương sử dụng phần 2 thang PTSD để đo lường mức độ nặng; đối với rối loạn loạn cảm tiền kinh nguyệt sử dụng mẫu đánh giá hằng ngày về độ nặng các rắc rối; đối với ám ảnh sợ xã hội, sử dụng thang lo âu xã hội Liebowitz.

Kế hoạch phân tích dữ liệu
Sử dụng tương quan Pearson để so sánh điểm tổng cộng Bản Câu Hỏi Sự Hưởng Thụ Và Sự Thoả Mãn Chất Lượng Cuộc Sống đối với các rối loạn chuyên biệt với điểm đề mục tổng quát cho mỗi rối loạn (đề mục 16). Các phân tích hồi quy được tiến hành cho tám mẫu lâm sàng khác nhau để đánh giá các đặc điểm lâm sàng chẩn đoán chuyên biệt và không chuyên biệt mà góp phần vào sự suy giảm chất lượng cuộc sống. Đối với mỗi rối loạn, phân tích hồi quy từng bước (stepwise) được tiến hành để nhập vào thời gian bệnh, tuổi, lo âu kèm theo, trầm cảm kèm theo, giới tính và độ nặng triệu chứng bệnh chuyên biệt. Các hệ số được chuẩn hoá không được so sánh vì nó đòi hỏi phải có một giả thuyết trước.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.